Gương là một đồ vật quen thuộc trong cuộc sống. Sành điệu cũ kĩ, người ta lấy nước soi mặt, bởi vậy thoạt đầu gương được gọi là "giám". Sau này gọi là "kính", vì nó có thể phản xạ hình bóng. Trong thơ Trung Quốc cổ lỗ, gương còn được gọi là "lăng hoa", tên gọi này sinh ra trong khoảng thời Tuyến đường, tên được đặt như vậy vì nó có hình lục lăng hoặc phía sau vẽ hoa ấu (lăng hoa).
Gương cũ kĩ được chế tác bằng đồng, thường có hình tròn, mặt dùng để soi được mài sáng bóng, mặt sau thường làm cho thành núm hoặc hoa văn trang hoàng. Sau này còn có gương sắt. Gương đồng tạo ra khỏe mạnh tham gia thời Chiến Quốc, chế độ gọn gàng, hoa văn dễ chơi, không khắc chữ. Trong khoảng thời Tây Hán tới thời Đông Hán, gương treo tường đồng khởi đầu dầy và nặng hơn, có hoa văn, hình cha ông và gia cầm thú vật..., nắm cầm thường khiến thành hình bán cầu hoặc hình cuống quả hồng, có khắc lên những chữ cát tường thông thường. Đến thời Tuyến đường, ngoài gương hình tròn, mở đầu sinh ra gương hình hoa ấu, gương bát giác, gương có tay cầm.





Hoa văn trên gương ở thời Con đường chủ công có hình bươm bướm, nho, chim thú, tích truyện, hero, hoa lá cành, mẫu đơn,... Sau kỷ nghuyên Càn Long đời Thanh, gương đồng dần dà được thay thế bởi gương kính. Trong khoảng trước tới nay gương luôn được coi là vật thần bí. Đạo gia cho rằng nó có thể chiếu yêu, Cát Hồng trong "Bão Phác Tử" nói: "Mọi vật già cỗi, sẽ biến thành tinh, có thể biến hoá lừa người, nhưng sẽ bị hiện nguyên hình trước gương, đạo sĩ nhập sơn, mang theo tấm guơng lớn trên chín tấc, sẽ làm cho ma quỷ không dám tới gần, khi ma quỷ thấy hình dạng của chính mình trong gương sẽ quay đẩu bỏ chạy.
Gương thời Trục đường Gương soi thấy kẻ có dấu chân tức đó là thần núi, kẻ không có dấu chân cam đoan đó là ma quỷ". Nhân tố này chứng tỏ, tà ma có thể che giấu khuân mặt thật để lừa người, nhưng sẽ phải hiện nguyên hình trong gương, nên đạo sĩ dùng gương để ứng phó với chúng. Tương tự gương trang trí cao cấp còn được gọi là "kính chiếu yêu". Dân gian thường cho rằng gương có thế đuổi ma trừ tà, Lý Thời Trân trong "Bạn dạng thảo cương mục" đã liệt kê: "Gương cổ hủ giống kiếm cũ kĩ, có thể trừ ma đuổi quỷ. Trước cửa nhà người phàm treo một tấm gương, có thể đuổi ma quỷ".
Là vật cát tường, chức năng trước tiên của gương cũng chính là điều mà Lý Thời Trân đã nói - đuổi ma quỷ, mang lại sự yên ổn và may mắn. Trước đó khi khiến cho nhà, đông đảo người đặt gương trên nóc nhà, tập tục này tới nay vẫn có thể thấy ở phần đông khu vực. Nếu như có tà ma khuất tất, có thể đặt gương ở bất cứ nơi nào trong nhà để xua đuổi. Trước đây khi cưới hỏi, có tục lệ cho cô dâu ấp ủ gương, còn có tục lệ đặt gương tham gia đấu gạo trên bàn thiên địa, và đặt gương trong giường cưới của cô dâu chú rể, hầu hết việc khiến cho này đều có chủ tâm xua đuổi mã tà, hộ trì cô dâu bình an vui vẻ.







Cũng vì hiện tượng đồng âm mà gương được dùng để biểu thị cát tường, một là "kính" trong tiếng Hán gần âm với "tấn", có tranh cát tường "tấn tước"(thăng tước vị), là bức vẽ gương đồng cổ hủ và chiếc tước (cốc uống rượu thời xưa có ba chân), nhì là lấy âm"đổng" trong từ đổng kính (gương đổng) đồng âm với "đồng" (cùng), có tranh cát tường "đổng giai đáo lão", là bức vẽ hình mẫu gương đẹp đồng và đôi hài, thường được thấy trong các đồ dùng trong hôn lễ. Ngoài ra, trước đó ở một số vùng, trong của hồi môn buộc phải phải có đôi hài và gương đồng, ẩn ý chúc "đồng giai đáo lão" (bình thường sống đến già).

Chủ đề cùng chuyên mục: